Truy cập nội dung luôn
Đăng nhập

Câu hỏi và đề cương gợi ý trả lời Cuộc thi “Tìm hiều 95 năm huyện Đại Từ hình thành và phát triển”

2017-05-23 00:00:00.0

 

CÂU HỎI VÀ ĐỀ CƯƠNG GỢI Ý TRẢ LỜI

Cuộc thi “Tìm hiều 95 năm huyện Đại Từ hình thành và phát triển”

(Kèm theo Thể lệ Cuộc thi, số 01-TL/BTC, ngày 15/5/2017 của BTC Cuộc thi)

I. CÂU HỎI

1. Nêu bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội ở thời kỳ huyện Đại Từ chính thức thành lập (tháng 8 năm 1922)? (15 điểm)

2. Cơ sở đảng đầu tiên ở Đại Từ ra đời và hoạt động như thế nào? (10 điểm).  

3. Huyện uỷ Đại Từ được thành lập như thế nào? Tình hình tổ chức Đảng bộ huyện Đại Từ hiện nay? (10 điểm).  

4. Trình bày bối cảnh ra đời chính quyền cách mạng của huyện Đại Từ? (10 điểm).  

5. Trong kháng chiến chống thực dân pháp, lực lượng vũ trang và nhân dân Đại Từ đã tổ chức và tham gia những trận đánh nào gây thiệt hại nặng nề cho địch? (10 điểm).  

6. Hãy nêu những đóng góp to lớn về “sức người, sức của” của nhân dân các dân tộc Đại Từ trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, góp phần cùng cả nước giành thắng lợi hoàn toàn?  (15 điểm).  

7. Những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội của huyện Đại Từ được Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXIII (nhiệm kỳ 2015 – 2020) tổng kết như thế nào? (15 điểm).  

8. Hiện nay huyện Đại Từ đang triển khai thực hiện những phong trào thi đua yêu nước nào? Đồng chí (ông, bà) quan tâm đến phong trào nào nhất, tại sao? (15 điểm).  

 II. ĐỀ CƯƠNG GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1: Nêu bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội ở thời kỳ huyện Đại Từ chính thức thành lập (tháng 8 năm 1922)?

 Về chính trị: ngày 01/8/1922, châu Đại Từ sáp nhập với châu Văn Lãng (phía bắc của huyện hiện nay) và chính thức lấy tên là huyện Đại Từ. Thời kỳ này, thực dân Pháp cai trị nước ta theo chế độ quân quản. Về tổ chức hành chính có cấp tỉnh, dưới là phủ, châu, tổng và làng; có thành lập chính quyền dân sự của người Việt, nhưng quyền cai trị vẫn nằm trong tay bọn thực dân Pháp. Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng đến làng bộ máy cai trị người Việt thực chất chỉ là bù nhìn. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng. Trong bộ máy cai trị bên cạnh chính quyền bản xứ, có chỉ huy đồn binh người Pháp can thiệp vào việc cai trị, quan đầu huyện chỉ là bù nhìn, có viên châu đoàn người Việt chỉ huy bọn lính dõng là loại lính tay sai, nhiều tên rất gian ác.

Dưới sự cai trị của thực dân Pháp và bộ máy tay sai, người dân không được tham gia vào quản lý xã hội, mà phải thực hiện các luật lệ hà khắc do chúng đặt ra, các luật lệ phục vụ lợi ích của thực dân Pháp và những người trong các Hội đồng ở địa phương.

Vốn có truyền thống yêu nước, lại bị bọn thực dân phong kiến bóc lột nên nhân dân các dân tộc Đại Từ đã cùng với nghĩa quân Yên Thế đi theo cụ Đề Thám để chung lòng, chung sức đánh Tây. Năm 1892, binh lính ở đồn Hùng Sơn, dưới sự chỉ huy của Cai Bát đã nổi dậy làm binh biến chiếm đồn, thu vũ khí của giặc và kêu gọi nhân dân hưởng ứng đấu tranh chống thực dân. Trong những tháng đầu năm 1896, dưới sự chỉ huy của Đề Dinh, nhân dân Đại Từ đã cùng với nghĩa quân đánh nhiều trận, làm cho bọn Pháp ở các đồn Lục Ba, Cát Nê phải khiếp sợ.

Ngày 30 tháng 8 năm 1917, Cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên do Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo nổ ra. Sau khi rút khỏi thị xã, nghĩa quân tiến về Đại Từ. Nhân dân Đại Từ đã hết lòng giúp đỡ lương thực, tạo mọi điều kiện phục vụ chiến đấu. Chiều ngày 5 và ngày 6/9/1917 đã diễn ra trận đánh ác liệt ở Núi Pháo, giặc Pháp bị tổn thất nặng nề. tuy cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng đã châm ngòi nổ báo hiệu tinh thần đấu tranh giải phóng của nhân dân.

        Về kinh tế: thời kỳ này kinh tế ở Đại Từ rất kém phát triển, chủ yếu là nghề làm ruộng, làm nương rẫy, ruộng đất tập trung vào địa chủ và tầng lớp trung nông là chính, diện tích canh tác cũng được mở rộng do người di cư ở các tỉnh miền xuôi lên khai hoang; đến năm 1932, diện tích đất canh tác là 5895 ha (16908 mẫu). Nghề chăn nuôi chủ yếu cũng chỉ ở những gia đình địa chủ và trung nông, có gia đình có đàn trâu đến vài chục con; năm 1932 đàn trâu của Đại Từ có 3200 con, đàn lợn có 5000 con. Ngoài nghề nông còn có một số ít người làm nghề thủ công nhưng chỉ để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt như nghề mộc, may vá, khai thác lâm sản…

        Giao thương tuy thuận lợi nhưng thời kỳ này việc trao đổi hàng hoá của nhân dân chủ yếu ở 4 chợ là chợ Mụ (chợ huyện), chợ Ký Phú, chợ Minh, chợ Yên Lãng. Chợ là nơi để nhân dân trao đổi hàng hoá là nông sản, mua các vật dụng sinh hoạt tối thiểu do người miền xuôi lên cung cấp, quý hiếm nhất là muối.

        Tuy kinh tế kém phát triển, nhưng người dân Đại Từ cũng phải chịu áp bức bóc lột của bộ máy cai trị thực dân như nhân dân trong cả nước. Phải chịu nhiều loại thuế, có thuế hết sức vô lý như thuế thuốc phiện, thuế rượu, thuế muối…, nặng nế nhất là thuế ruộng và thuế thân. Thuế thân đánh vào tất cả đàn ông từ 18 đến 60 tuổi.

        Thực dân Pháp và địa chủ, cường hào dùng nhiều thủ đoạn chiếm đoạt ruộng đất của nông dân Đại Từ để lập đồn điền, đến năm 1932 có các đồn điền như: Ga-ri (có đất đai cả một vùng rộng lớn ở Bình Thuận, Vạn Thọ), Bản Ngoại, Tràng Lương, Phú Lạc, Hà Thượng, Hoàng Nông, Mỹ Yên…. Chúng độc quyền và bắt người dân mua rượu, khuyến khích sử dụng thuốc phiện; địa chủ cho vay nặng lãi… đã đẩy người nghèo vào con đường bần cùng hoá.

Về xã hội: người dân Đại Từ được tụ hội từ nhiều nơi khác, người kinh ở đây rất lâu đời, từ thế kỷ 15 đã có dòng họ Lưu ở Văn Yên. Người Tày cũng có mặt lâu đời ở các xã phía bắc, người Cao Lan, người Sán Chí, người Dao, người Nùng…sống chủ yếu vùng chân núi Tam Đảo và các xã phía bắc của huyện… Đến năm 1932, Đại Từ có 9 tổng, 38 làng (các tổng: Ký Phú, Yên lãng, Hùng Sơn, Tiên Sơn, Thượng Lâm, Thượng Lương, Phú Lạc, Cù Vân, Tiên Lãng), dân số là 11.161 người.

 Đặc điểm xã hội thời kỳ này là thực dân và phong kiến áp dụng nhiều chính sách phản động như chia rẽ lương và giáo; giữa đồng bào các dân tộc; giữa  người bản địa và người miền xuôi mới lên làm tá điền, làm phu mỏ; giữa các làng, các tổng với nhau. Đồng thời thực hiện chính sách “ngu dân” nên không có trường học, bệnh xá, chúng khuyến khích phát triển các hủ tục mê tín dị đoan…làm cho cuộc sống của người dân tối tăm, bần cùng hoá. Đại bộ phận người dân Đại Từ mù chữ, bệnh tật hoành hành, nạn mê tín dị đoan trầm trọng. Những tệ nạn như rượu chè, thuốc phiện, cờ bạc, lấy vợ lẽ rất phổ biến…

 Tuy nhiên, đời sống văn hoá tinh thần trong nhân dân vẫn phong phú và đa dạng. Cứ dịp xuân về các làng đều tổ chức lễ hội. Người Kinh có hội xuống đồng, người Tày có hội “lùng tùng”…  cầu mong cho mùa màng tươi tốt, mọi người no đủ, hạnh phúc. 

Câu 2: Cơ sở đảng đầu tiên ở Đại Từ ra đời và hoạt động như thế nào?

- Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (sau đó đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương). Đây chính là bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam.

- Nhân dân các dân tộc Đại Từ có truyền thống yêu nước từ xa xưa, có tinh thần tiếp thu các tư tưởng tiến bộ, tham gia nhiều cuộc khởi nghĩa, các phong trào yêu nước trước khi có Đảng; từ khi Đảng ra đời đã đồng lòng theo Đảng, hưởng ứng các phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo.

- Ngày 27 tháng 3 năm 1935, Đại hội Đại biểu Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ nhất họp tại Ma Cao (Trung Quốc) đã chỉ ra đường lối phát triển các cơ sở Đảng về vùng núi. Đại Từ, Thái Nguyên là vùng núi, có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, có vị trí ở trung tâm các tỉnh phía bắc thuận lợi cho gây dựng và phát triển phong trào cách mạng của cả nước

- Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất, Chi bộ hải ngoại của Đảng cộng sản Đông Dương ở Long Châu quyết định đưa cán bộ, đảng viên về nước hoạt động. Chi bộ hải ngoại Long Châu cử đồng chí Đặng Tùng (tên thật là Đinh Ngọc Đạt), người có năng lực vận động quần chúng về Thái Nguyên và hoạt động ở xã La Bằng. Đồng chí Đặng Tùng về La Bằng đến gia đình họ Đường (khi ở Trung Quốc, Đặng Tùng đã ở gia đình người Nùng họ Đường, gia đình này có nhiều bà con sinh sống ở La Bằng), bắt đầu công việc gây dựng cơ sở cách mạng ở đây bằng việc giác ngộ anh em nhà họ Đường, đồng chí Đường Văn Hon được Đồng chí Đặng Tùng kết nạp vào Đảng, là hạt nhân cộng sản đầu tiên của Đại Từ, cũng của Thái Nguyên . Vào một đêm tháng 9/1936, tại ngôi nhà lá 3 gian của đồng chí Đường Văn Hon ở xóm Lau Sau, cơ sở đảng đầu tiên được chính thức thành lập chỉ với 4 đảng viên đều là người dân tộc Nùng (4 đồng chí gồm: Đường Văn Hon, Đường Văn Ngân, Nông Văn Ái, Hoàng Văn Nghiệp). Đồng chí Đường Văn Hon được giao phụ trách cơ sở đảng này.

- Sau khi thành lập, hoạt động của cơ sở Đảng có gặp nhiều khó khăn, việc phát triển có giới hạn, song các đảng viên vẫn duy trì được phong trào đấu tranh liên tục, đến năm 1938 đã có 8 đảng viên. Do có cán bộ của xứ uỷ, của Trung ương thường xuyên đi lại, chỉ đạo phong trào cách mạng phát triển từ thấp đến cao. Ban đầu chi bộ đứng ra vận động nhân dân trong làng, bản tham gia Hội ái hữu, Hội tương tế để giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, như tên gọi của nó. Bên trong các đảng viên cộng sản lợi dụng tổ chức hội hè mang tính hợp pháp để tập hợp quần chúng qua đó giác ngộ họ vào con đường cứu nước do Đảng ta vạch ra. Thông qua các hội này, tổ chức đảng vận động mở các lớp học văn hoá, đọc sách báo của Đảng. Từ năm 1940 trở đi, cơ sở Đảng ở La Bằng đã bắt được liên lạc với các tổ chức đảng ở Võ Nhai, Định Hoá, có sự chỉ đạo của xứ ủy Bắc Kỳ. Nhờ đó phong trào cách mạng ở Đại Từ, Võ Nhai, Định Hoá đã gắn bó với nhau, hỗ trợ nhau trong cả quá trình vận động cách mạng tháng Tám và cùng lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương.

- Cơ sở cách mạng đã từ La Bằng lan rộng ra các xã Bản Ngoại, Na Mao, Yên Lãng, Phú Xuyên. Ở các cơ sở này đã tổ chức được những người có tâm huyết yêu nước thương nòi hoạt động cách mạng, những đồng chí trung kiên đã được đứng trong tổ chức đảng. Cuối năm 1939, đồng chí Nhất Quý bị bắt giam ở Lạng Sơn. Sau đó bọn chúng đưa đồng chí về địa phương thẩm vấn nhưng không có tài liệu xác đáng nên phải thả. Bọn địch đã ra lệnh cấm nhân dân đọc sách tiến bộ, cấm hội họp đông người, nhưng các đồng chí cộng sản kiên cường vẫn tích cực hoạt động. Các cơ sở cách mạng vẫn phát triển trong đồng bào Dao, Tày, Nùng và có xu hướng lan rộng. Cuối năm 1939, đầu năm 1940, đồng chí Hoàng Quốc Việt - Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng đã từ miền xuôi lên Đình Cả, Tràng Xá rồi sang Đại Từ kiểm tra phong trào. Các đảng viên của Đại Từ được đồng chí Hoàng Quốc Việt bồi dưỡng thêm về lý luận và phương pháp tuyên truyền cách mạng. Sau này cơ sở cách mạng ở Đại Từ phát triển dần sang Tuyên Quang. Cuối tháng 2, đầu tháng 3/1942. đường liên lạc đã được đánh thông từ vùng giáp Tuyên Quang sang Đại Từ đến được các xã của huyện Phú Lương và mở rộng sang Định Hoá. Được tăng cường thêm lực lượng, phong trào cách mạng Đại Từ hoạt động sôi nổi hơn trước và phát triển cả về bề rộng và chiều sâu.

Cơ sở đảng ở La bằng ra đời đánh dấu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã bùng lên trên mảnh đất Đại Từ, đây cũng chính là những “đốm lửa đầu tiên” được thắp lên và lan toả thành cao trào cách mạng ở Đại Từ, Thái Nguyên.

Câu 3: Huyện ủy Đại Từ được thành lập như thế nào? Tình hình tổ chức  Đảng bộ huyện Đại Từ hiện nay?

          * Huyện ủy Đại Từ được thành lập

- Cuộc cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam; phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ của Pháp - Nhật, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế trên đất nước ta, đưa Việt Nam từ nước thuộc địa trở thành nước độc lập, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ nước nhà. Cách mạng tháng 8 thành công đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vui mừng vô hạn trước sự đổi đời, toàn dân ta xây dựng cuộc sống mới. Tuy nhiên trước mắt nhân dân ta đang còn nhiều khó khăn rất lớn: giặc đói, gặc dốt, giặc ngoại xâm. Vận mệnh của nhà nước non trẻ đang bị đe doạ.

- Trong bối cảnh chung của cả nước, Thái Nguyên và huyện Đại Từ nói riêng sau khi giành được chính quyền (tháng 8/1945) cũng gặp những khó khăn, phức tạp. Phần lớn ruộng đất ở Đại Từ tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong kiến. Nông dân lao động không có hoặc thiếu ruộng đất cày cấy. Thêm vào đó là hậu quả của chính sách cai trị, khai thác và bóc lột hơn nửa thế kỷ (1884 – 1945) của thực dân Pháp đã làm cho nền kinh tế trì trệ, lạc hậu. Nhưng sẵn có truyền thống đoàn kết, ý chí và bản lĩnh kiên cường, nhân dân các dân tộc huyện Đại Từ đã quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đưa phong trào cách mạng của huyện từng bước vượt qua khó khăn.

- Đầu tháng 4/1945, bộ máy thống trị của địch từ huyện đến thôn xã đã bị đập tan, chính quyền cách mạng ở cơ sở được xây dựng. Một hội nghị quan trọng ở La Bằng do đồng chí Song Hào chủ trì để bàn về xây dựng chính quyền cấp huyện. Hội nghị đã nhất trí quyết định thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng lâm thời châu Giải Phóng (thời kỳ này huyện Đại Từ gọi là châu Giải Phóng), sau đó tại Na Mao Uỷ ban dân tộc giải phóng lâm thời do đồng chí Nguyễn Trung Thành dân tộc Nùng làm chủ tịch đã tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên của huyện. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, nhân dân các dân tộc Đại Từ luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của Tỉnh ủy cũng như các đồng chí cán bộ cấp trên. Tháng 9/1945, tại xã Cát Nê, chi bộ Đảng được thành lập. Sau đó từ năm 1946 trở đi, các chi bộ Đảng lần lượt ra đời ở các xã, từ sự phát triển của tổ chức cơ sở Đảng ở các xã, Tỉnh uỷ Thái nguyên đã quyết định thành lập Huyện ủy Đại Từ chính là một nhân tố đặc biệt quan trọng, có tác dụng thúc đẩy mọi mặt công tác ở địa phương.

- Việc tổ chức và lãnh đạo quần chúng tham gia bảo vệ và xây dựng nền móng chính quyền dân chủ nhân dân được quan tâm, chú trọng. Đứng trước tình trạng mất mùa, đói kém ở địa phương ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch và chấp hành chủ trương của Tỉnh ủy lâm thời, dưới sự chỉ đạo của tổ chức Đảng và chính quyền, nhân dân các dân tộc Đại Từ nhiệt liệt hưởng ứng phong trào “Hũ gạo tiết kiệm”, “Ngày đồng tâm...”. Để dần hạn chế nạn mù chữ, ở khắp các xã đều mở các lớp bình dân học vụ. Cùng với phong trào bình dân học vụ, các đoàn thể cứu quốc tích cực vận động hội viên thực hiện đời sống mới để bài trừ những hủ tục lạc hậu.

- Từ tháng 9/1945 trở đi, nhân dân Đại Từ và một số địa phương trong tỉnh Thái Nguyên phải lo đối phó với âm mưu và hành động phá hoại của quân Tưởng và bè lũ tay sai. Ngày 23/9/1945 thực dân Pháp nổ sung gây hấn ở Sài Gòn thế là “kẻ thù không đội trời chung của đồng bào ta 80 năm nay lại hiện ra trước mắt”. Với tinh thần quyết tâm giữ vững độc lập, tự do nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống hành động xâm lược của thực dân Pháp. Tại huyện Đại Từ phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến diễn ra sôi nổi trong tất cả các ngành, các giới. Nhân dân trong huyện tình nguyện đóng góp sức người, sức của, xây dựng lực lượng, lực lượng vũ trang địa phương phát triển nhanh chóng, trở thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc kháng chiến bảo vệ quê hương.

- Ngày 23/12/1945, trong không khí tưng bừng của ngày hội Tổng tuyển cử cả nước, nhân dân các dân tộc huyện Đại Từ phấn khởi và tự hào đi bỏ phiếu bầu cử những đại biểu xứng đáng tham gia vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, đồng chí Nguyễn Trung Thành, Chủ tịch Uỷ ban dân tộc giải phóng lâm thời Đại Từ đã được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I. Ngay sau đó dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các chi bộ Đảng, đồng bào các dân tộc trong huyện nô nức tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp ở địa phương. Đến khoảng tháng 4/1946, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, xã bầu ra Ủy ban hành chính. Cũng từ đó, các cơ quan chuyên môn của chính quyền địa phương được thành lập và ngày càng được củng cố.

- Ngày 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và quyết định phát động cuộc kháng chiến trong cả nước. Nhận thấy Đại Từ có vị trí quan trọng trong kháng chiến, Trung ương đã chọn Đại Từ và một số huyện khác làm nơi xây dựng an toàn khu (ATK) kháng chiến. Nhận rõ vinh dự và trách nhiệm của một huyện được chọn làm căn cứ địa cách mạng, nhân dân các dân tộc huyện Đại Từ ra sức thi đua sản xuất, dành nhiều ngày công, ủng hộ nhiều tre, nứa, gỗ... để xây dựng nơi ở và làm việc cho các cơ quan Trung ương. Cùng với việc củng cố kiện toàn từng bước bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân, các cơ quan chức năng chuyên chính ở địa phương được xây dựng và phát triển; cuối năm 1946, Ủy ban bảo vệ huyện và các xã ra đời. Nhằm tăng cường công tác chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, từ giữa năm 1947 trở đi ban huyện đội và các ban xã đội dân quân được thành lập và đi vào hoạt động...Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ được tăng cường, các chi bộ lần lượt xuất hiện ở các xã; một số chi bộ, điển hình là chi bộ Cao Vân vươn lên trở thành chi bộ khá của tỉnh.

- Quán triệt chủ trương của Trung ương và của Tỉnh ủy, Đảng bộ Đại Từ từng bước giải quyết mọi khó khăn về các mặt, xây dựng nền móng chính quyền dân chủ, nhân dân, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho cuộc chiến đấu chống mọi âm mưu và hành động của thực dân Pháp.

*Tình hình tổ chức của Đảng bộ huyện Đại Từ hiện nay

- Về cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ huyện: Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Đại Từ lần thứ XXIII, nhiệm kỳ 2015 – 2020 (cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ trong nhiệm kỳ) đã bầu ra 43 đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (là cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ huyện trong nhiệm kỳ); Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã bầu Ban Thường vụ Huyện uỷ với 13 đồng chí (gồm Bí thư Huyện ủy, 02 phó Bí thư Huyện ủy, 10 ủy viên BTV) để thay mặt Ban chấp hành lãnh đạo công tác của Đảng bộ huyện giữa các kỳ họp của Ban chấp hành (3 tháng 1 kỳ); Thường trực Huyện ủy gồm Bí thư, các phó Bí thư trực tiếp điều hành các hoạt động của Đảng bộ huyện giữa 2 kỳ họp của Ban Thường vụ (1 tháng 1 kỳ); Cơ quan thường trực của Đảng bộ huyện là Huyện ủy, có các cơ quan giúp việc gồm: Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo, Ủy ban kiểm tra, Ban Dân vận và Văn phòng Huyện ủy.  

- Về vai trò lãnh đạo: Ban Chấp hành Đảng bộ huyện có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện công tác của Đảng bộ huyện trong nhiệm kỳ 2015 – 2020 và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXIII; Ban Thường vụ Huyện uỷ thay mặt Ban chấp hành lãnh đạo công tác của Đảng bộ huyện giữa các kỳ họp của Ban chấp hành (3 tháng 1 kỳ) và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Ban chấp hành tại các kỳ họp. Vai trò lãnh đạo của đảng, trực tiếp là của cấp ủy chi bộ đảng được đảm bảo ở 100% số xóm, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, trường học...trên địa bàn toàn huyện

- Về tổ chức: Đảng bộ huyện có 58 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 38 đảng bộ cơ sở (30 đảng bộ xã, thị trấn, 5 đảng bộ ở các cơ quan huyện, 3 đảng bộ doanh nghiệp), 20 chi bộ cơ sở; có 694 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở.

- Đảng viên: tính đến thời điểm 31/3/2017 toàn đảng bộ huyện có 8.655 đảng viên sinh hoạt tại 58 tổ chức cơ sở đảng.

- Về loại hình tổ chức: các loại hình tổ chức đảng trong Đảng bộ huyện gồm: tổ chức đảng trong nông thôn, trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, cơ sở giáo dục, cơ sở y tế; tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang, doanh nghiệp.

Câu 4: Trình bày bối cảnh ra đời chính quyền cách mạng huyện Đại Từ?

1. Tình hình thế giới

- Năm 1944, Hồng quân Liên Xô giải phóng toàn bộ lãnh thổ Liên bang Cộng hoà xã hội Xô Viết, giải phóng Đông Âu.  Đầu năm 1945, Hồng Quân đập tan tuyến phòng thủ của giặc, tiến vào lãnh thổ nước Đức phát xít. Trên đà thắng lợi của Hồng Quân Liên Xô, các nước Anh, Mỹ mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu. Nước Pháp thoát khỏi ách chiếm đóng của phát xít Đức.

- Phát xít Nhật bị đồng minh uy hiếp nghiêm trọng, thực dân Pháp ráo riết hoạt động nhằm giành lại Đông Dương, Nhật và Pháp chuẩn bị tích cực cho một cuộc giao tranh quyết liệt.

- 20 giờ 25 phút ngày 9/3/1945, Nhật nổ súng hất cẳng Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Quân Pháp chống cự yếu ớt rồi quỳ gối đầu hàng, Nhật độc chiếm Đông Dương.

2. Tình hình trong nước

- Trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng trong nước dâng cao.

- Trong bối cảnh Nhật đảo chính Pháp, trong cuộc họp tại Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh ) từ ngày 9 đến 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị quan trọng “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

- Thực hiện chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, không khí cách mạng sôi sục trong cả nước.

3. Tại Thái Nguyên, Đại Từ

- Trước ngày 9/3/1945, binh lính Pháp từ thị xã Thái Nguyên theo đường 13A rút sang Tuyên Quang gây nên sự xáo động ở Đại Từ, tin Nhật hất cẳng Pháp đến Đại Từ sớm.

- Ngày 10/3/1945, theo sau binh lính Pháp, bọn quan chức dân sự cũng bỏ thị xã Thái Nguyên tháo chạy, tuy vậy vừa lên đến Đại Từ thì được tin quân lính đi trước bị Nhật phục kích ở Đèo Khế nên bọn này hoảng hốt quay lại thị xã. Sự trở lại của quan thầy đã tác động mạnh, phá vỡ sự ổn định hình thức của tổ chức bộ máy tay sai từ huyện đến thôn, xã.

Cùng ngày, Khu uỷ Nguyễn Huệ triệu tập hội nghị bất thường do đồng chí Song Hào, Bí thư Khu uỷ chủ trì, hội nghị đã nhận định: “Nhật, Pháp đã bắn nhau, thời cơ khởi nghĩa đã đến”.

- Lợi dụng việc Pháp bắt nhân dân ta đi phu chuyên chở vũ khí cho binh lính của chúng chạy Nhật, ta đã thực hiện kế hoạch lấy vũ khí của chúng.

- Ngày 25/3/1945, một hội nghị quan trọng do các đồng chí lãnh đạo Khu uỷ Nguyễn Huệ triệu tập đã nhận định bộ máy tay sai địch ở các tổng, xã rất hoang mang và tê liệt vì khí thế sục sôi của cách mạng và sự cắn xé lẫn nhau của quan thầy. Thời cơ và điều kiện để giành chính quyền về tay nhân dân đã thực sự chín muồi. Hội nghị quyết định phải kịp thời giải phóng huyện lỵ trược khi quân Nhật kéo lên.

- Chiều ngày 25/3/1945, nhân dân các làng xã Na Mao, Yên Lãng, Phú Xuyên… tập trung ở phố Yên Lãng dự mít tinh, đồng chí Chu Văn Tấn kêu gọi  nhân dân đoàn kết, tích cực ủng hộ cách mạng và vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

- Sáng 30/3/1945, quân ta tiến về Hoàng Nông, Khôi Kỳ tổ chức mít tinh, tuyên bố xoá bỏ chính quyền địch, lập chính quyền cách mạng. Sáng 31/3/1945, một cuộc mít tinh lớn đựoc tổ chức tại thị trấn Hùng Sơn, kêu gọi nhân dân các dân tộc đoàn kết, đứng lên chống Nhật cứu nước.

- Tháng 4/1945, bộ máy thống trị của địch từ huyện đến thôn xã đã bị đập tan, chính quyền cách mạng ở cơ sở đã được xây dựng. Một hội nghị quan trọng ở La Bằng do đồng chí Song Hào chủ trì đã bàn về xây dựng chính quyền cấp huyện: hội nghị nhất trí quyết định thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng lâm thời châu Giải Phóng do đồng chí Nguyễn Trung Thành làm chủ tịch, đồng chí Bảo Loan làm Phó Chủ tịch, đồng chí Vi Nam Sơn và Tiến Khanh làm uỷ viên, đồng chí Việt Hưng làm thư ký.

- Sau đó tại Na Mao Uỷ ban dân tộc giải phóng lâm thời châu Giải Phóng đã tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên của huyện gồm đại biểu các dân tộc anh em cùng chung sống ở địa phương, thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc và quyền làm chủ của nhân dân các dân tộc trong huyện.

Ý nghĩa ra đời chính quyền cách mạng huyện Đại Từ ?

Câu 5: Trong kháng chiến chống thực dân pháp, lực lượng vũ trang và nhân dân Đại Từ đã tổ chức và tham gia những trận đánh nào gây thiệt hại nặng nề cho địch?

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng vũ trang và nhân dân Đại Từ đã tổ chức chiến đấu, góp phần đập tan cuộc tấn công của thực dân Pháp vào căn cứ địa Việt Bắc thu đông năm 1947 và tham gia chiến đấu đập tan chiến dịch Phốc (Phoque 1948 – 10/1950).

1. Tham gia chiến đấu, góp phần đập tan cuộc tấn công của thực dân Pháp vào căn cứ địa Việt Bắc thu đông năm 1947

* Cuộc hành quân Lê a.

- Ngày 07/10/1947, Pháp mở cuộc tiến công vào căn cứ địa Việt Bắc.

- Ngày 15/10/1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”, trong đó chỉ thị cho quân dân Việt Bắc cùng với cả nước phải “làm cho địch thiệt hại nặng nề không gượng lại được sau chiến dịch mùa đông này, bắt địch phải chuyển sang thế thất thủ”.

- Để có lực lượng vũ trang trực tiếp bảo vệ các cơ quan đầu não của huyện, Ban Chỉ huy Quân sự huyện đã nhanh chóng xây dựng Trung đội du kích tập trung. Cùng với  đó, Đại Từ đẩy mạnh công tác huy động dân quân, du kích và nhân dân thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, “vườn không nhà trống”; huy động dân quân, du kích và nhân dân tại các xã dọc các tuyến giao thông chính phá đường sá, cầu, cống và đắp các ụ đất cản trở xe cơ giới của địch, trong đó tổ chức đập phá Cầu Huy Ngạc; vận động nhân dân đóng góp tre, nứa và huy động lực lượng dân quân vót hàng vạn chiếc chông nhọn, cắm khắp cánh đồng, bãi trống, đồi trọc để chống quân địch nhảy dù.

- Đại Từ nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, đến cuối tháng 10/1947, với đại đội độc lập quân chủ lực thuộc trung đoàn 121 được điều về huyện Đại Từ, quân ta đánh mạnh, Bộ chỉ huy Pháp phải rút bỏ một số vị trí ở Bắc và Tây Bắc Kạn. Lợi dụng cơ hội đó, quân ta tổ chức nhiều trận phục kích trên đường giao thông đánh địch. Cuộc hành quân mang tên Lê - a của chúng bị thất bại.

* Cuộc hành quân Xanh – tuya

- Thất bại trong cuộc hành quân Lê – a, Bộ Chỉ huy Pháp chuyển sang thực hiện kế hoạch mới mang tên Xanh – tuya: kết hợp với việc rút lui các lực lượng đã tham gia cuộc hành quân Lê – a cùng trung đoàn bộ binh Ma - rốc số 5 và trung đoàn do trung tá Côtxtơ chỉ huy, bao vây càn quét khu tứ giác Tuyên Quang – Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng Thương nhằm tiếp tục lùng bắt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt quân chủ lực và phá nát căn cứ địa của ta; huyện Đại Từ nằm trong khu càn quét, đánh chiếm của địch.

- Ngày 22/11, tại tuyến đường số 3, quân Pháp rút về Thái Nguyên, khắp các điểm tiến quân, chúng đều bị quân và dân ta bám sát chặn đường đánh quyết liệt, quân địch không dám hung hăng như trước nữa, địch rút lui từ Định Hoá, theo đường Phú Minh để vào huyện lỵ Đại Từ.

- Ngày 29/11 tại Quán Ông Già (Phú Minh), Trung đội du kích tập trung huyện Đại Từ phối hợp với một đơn vị bộ đội chủ lực phục kích quân Pháp từ Quảng Nạp (Định Hoá) xuống Phú Minh (Đại Từ), diệt 15 tên, buộc chúng phải rút về Sơn Dương.

- Ngày 30/11, đại đội Tô Văn chặn đánh địch tại xóm Cây Thị khi chúng từ làng Ngò theo đường hẻm càn lên thị trấn Hùng Sơn, diệt 15 tên. Tại cầu Hến, du kích xã An Khánh phục kích bằng mìn 1 toán quân địch từ Làng Ngò lên Cù Vân, diệt 2 tên. Đêm 30/11, du kích xã An Khánh đã phối hợp với một đơn vị bộ đội chủ lực từ Phúc Xuân sang tập kích vào các vị trí trú quân của địch ở Làng Ngò (An Khánh), khiến địch luôn ở trạng thái lo sợ, đối phó, căng thẳng.

- Ngày 02/12, quân ta phục kích toán quân từ Sơn Dương càn sang Đại Từ, diệt 30 tên, buộc chúng phải rút về Yên Lãng; đại đội Khánh Mỹ và Lê Văn Duyên phối hợp với du kích tập kích địch ở làng Ngò, diệt 2 tên.

- Ngày 05/12, từ Hùng Sơn, quân Pháp chia làm 2 mũi càn quét vào các vùng Khôi Kỳ, Bình Thuận, Bình Khang. Tại một địa điểm gần đình Khôi Kỳ, bộ đội chủ lực của ta đã chặn đánh ác liệt một mũi tấn công của địch từ Hùng Sơn càn xuống, diệt 25 tên. Tại Bình Khang, quân địch từ Khôi Kỳ sang và địch từ Hùng Sơn xuống lọt vào trận địa phục kích bằng mìn của bộ đội ta, 25 tên bị tiêu diệt.

- Ngày 06/12, quân ta tiêu diệt địch tại An Mỹ (nay là Mỹ Yên), ngày 07/12, tiêu diệt địch tại Dốc Điệp – Ba Giăng. Ngày 09/12, tiêu diệt địch tại dốc Mánh và Phục Linh. Âm mưu đánh phá căn cứ địa Việt Bắc, lùng bắt cơ quan đầu não kháng chiến và tiêu diệt quân chủ lực của ta của thực dân Pháp trong kế hoạch Xanh – tuya về căn bản đã thất bại.

- Tháng 12/1947, ta đã truy kích và chặn đánh, tiêu diệt thêm một bộ phận lực lượng của quân dịch tại Lục Ba, Ký Phú khi chúng đang trên đường chuẩn bị rút quân về xuôi. Ngày 16/12, du kích đã thắng một trận xuất sắc tại Đan Hạ (La Bằng).

Trải qua gần một tháng trực tiếp đương đầu với cuộc hành quân Xanh- tuya của địch, nhân dân và lực lượng dân quân, du kích, tự vệ Đại Từ đã vừa độc lập tác chiến, vừa phối hợp với bộ đội chủ lực đánh 41 trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt 252 tên địch, làm bị thương nhiều tên.

2. Tham gia chiến đấu đập tan chiến dịch Phốc (Phoque)

- Tháng 9/1950, Bộ Chỉ huy Pháp quyết định mở cuộc hành quân mang mật danh “Phoque” (chó biển) tấn công vào Thái Nguyên.

- Với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân và dân Đại Từ kiên quyết đập tan chiến dịch Phốc của địch.

- 11 giờ ngày 03/10/1950. Quân Pháp ở Quán Triều mở cuộc tiến công ra ba hướng: Quán Triều lên Bá Sơn, Bờ Đậu, Quán Triều đánh vào làng Um, làng Ngò, Quán Triều tiến thẳng lên An Khánh.

- Đại đội 226 do Ban Chỉ huy quân sự huyện điều động xuống phối hợp với quân du kích các xã Cù Vân, An Khánh đánh địch. Khi địch tấn công, càn quét vào địa bàn, du kích Cù Vân phối hợp với bộ đội địa phương tiêu diệt 6 tên địch, bắn bị thương nặng 1 tên quan một, du kích An Khánh tiêu diệt 4 tên, bắn bị thương 2 tên.

 Trải qua hơn 10 ngày chiến đấu tại mặt trận Thái Nguyên, quân và dân Đại Từ đã cùng với quân dân toàn tỉnh đánh trên 60 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 950 tên địch, bắn rơi một máy bay, làm hỏng nặng ba ca nô, thu 160 súng các loại. Chiến thắng chiến dịch Phốc, quân và dân Đại Từ đã góp phần vào chiến thắng của ta trong chiến dịch biên giới, làm tròn nhiệm vụ bảo vệ vững chắc khu căn cứ địa Việt Bắc.

Câu 6: Hãy nêu những đóng góp to lớn về “sức người, sức của” của nhân dân các dân tộc Đai Từ trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, góp phần cùng cả nước giành thắng lợi hoàn toàn?

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, nước ta tạm thời chia cắt làm hai miền. Với quyết tâm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng ta lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện đồng thời 2 cuộc cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam. Cả nước lại bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược giải phóng Miến Nam, thống nhất đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với ý chí và tinh thần cách mạng kiên cường, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đại Từ vừa khắc phục hậu quả chiến tranh do thực dân Pháp để lại, vừa phát triển sản xuất và tham gia chiến đấu đánh đuổi đế quốc Mỹ. Trong cuộc kháng chiến đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, nhân dân Đại Từ đã hăng hái, tích cực đóng góp sức người, sức của cho chiến trường Miền Nam, đồng thời chiến đấu bảo vệ Miền Bắc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quê hương. Để góp phần chi viện cho chiến trường Miền Nam, khẩu hiệu “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” như một mệnh lệnh trong mỗi người dân Đại Từ.

- Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại Từ đã có 7.068 người là con em nhân dân các dân tộc Đại Từ lên đường đánh Mỹ. Đã có 920 người hy sinh ngã xuống vì Tổ quốc được công nhận là liệt sĩ, 711 người hy sinh một phần xương máu trên các chiến trường được công nhận là thương binh, 259 người giảm sút sức khỏe được xác nhận là bệnh binh. Trong thời gian này, huyện Đại Từ có 920 thanh niên xung phong tham gia kháng chiến, có 8 người đã hy sinh, 17 người được công nhận và hưởng chế độ thương binh, 17 người được công nhận và hưởng chế da cam. Toàn huyện có hàng trăm gia đình có từ 2 con trở lên nhập ngũ, có gần 100 gia đình có con độc nhất hoặc từ 2 con đến 3 con là liệt sĩ.

- Cùng với đóng góp sức người cho chiến trường miền Nam, Đại Từ còn luôn hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đối với Nhà nước. Do yêu cầu của cuộc kháng chiến, việc đóng góp ngày càng lớn nhưng huyện Đại từ luôn là đơn vị dẫn đầu của tỉnh. Trung bình mỗi năm Đại Từ đóng góp cho Nhà nước trên 5.000 tấn lương thực và trên 200 tấn thịt lợn hơi.

- Cùng với nhân dân cả nước, sự đóng góp đầy đủ và kịp thời sức người, sức của của Đảng bộ và nhân dân Đại từ đã góp phần cùng đồng bào miền Nam đập tan hết chiến lược này đến chiến lược khác của đế quốc Mỹ, tiến tới cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975, đánh đuổi hoàn toàn giặc Mỹ, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.

Câu 7: Những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội của huyện Đại Từ được Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXIII (nhiệm kỳ 2015 – 2020) tổng kết như thế nào?

 * Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 17,39%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ tiêu là trên 13%), tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 51,8%, dịch vụ 30,6%, nông nghiệp 17,6%. So với đầu nhiệm kỳ, giá trị sản xuất của các ngành đều tăng cao, cơ cấu giá trị đã có sự chuyển dịch mạnh theo hướng phát triển công nghiệp, cơ bản các chỉ tiêu trên từng lĩnh vực hoàn thành vượt kế hoạch đề ra.

- Nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng khoa học vào sản xuất. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 5,54%/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ tiêu là tăng 4%/năm trở lên).

+ Sản xuất lương thực tiếp tục phát triển, sản lượng bình quân đạt 72.408 tấn/năm, vượt 3,44% so với chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ tiêu là 70.000 tấn/năm).

+ Tập trung chỉ đạo khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh cây chè, hiệu quả sản xuất chè được nâng cao, sản lượng chè búp tươi năm 2015 ước đạt 62.000 tấn, vượt 13,8% so với chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ tiêu là 54.000 tấn).

+ Chăn nuôi tiếp tục phát triển theo hướng chăn nuôi công nghiệp, trang trại, gia trại, chất lượng sản phẩm được nâng cao. Sản lượng thịt hơi năm 2015 ước đạt 12.200 tấn, tăng 3.658 tấn so với năm đầu nhiệm kỳ; sản lượng thủy sản năm 2015 ước đạt 2.200 tấn, tăng 825 tấn so với năm đầu nhiệm kỳ.

+ Sản xuất lâm nghiệp phát triển, diện tích trồng rừng tập trung bình quân đạt 1.004 ha/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ tiêu là 700 ha/năm). Công tác quản lý bảo vệ rừng được đảm bảo; tỷ lệ che phủ rừng ổn định trên 49%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ tiêu Nghị quyết là 49,2%).

+ Tập trung chỉ đạo Chương trình xây dựng nông thôn mới và đạt được kết quả quan trọng. Đến tháng 7/2015, huyện có 8 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, vượt chỉ tiêu Nghị quyết, các xã còn lại đều hoàn thành từ 10 đến 16 tiêu chí.

 - Sản xuất Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển mới. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 26,7%/ năm, giá trị sản xuất tăng bình quân 52,19%/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ tiêu là trên 20%).

- Các hoạt động thương mại, dịch vụ được mở rộng, đáp ứng tốt hơn yêu cầu sản xuất và phục vụ đời sống. Giá trị thương mại, dịch vụ tăng bình quân 16,47%/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ tiêu Nghị quyết là 16% trở lên).

- Phát triển du lịch được quan tâm, đạt kết quả bước đầu về quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển làng nghề sản xuất chè nhằm hình thành sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương, quảng bá, giới thiệu tiềm năng du lịch của huyện. Công tác quản lý ngân sách được tăng cường.

- Phát huy nội lực, thu hút đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội từng bước được đồng bộ. Tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2011-2015 tăng cao, đạt 2.394,8 tỷ đồng, tăng 1.038,5 tỷ đồng so với giai đoạn 2005 – 2010.

* Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ: chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo tiếp tục được nâng cao; quy mô trường lớp được sắp xếp phù hợp đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dực tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS.

- Hoạt động văn hóa, thông tin, thể thao tiếp tục được đổi mới, góp phần quan trọng cho sự phát triển của huyện.

- Quan tâm thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân và nâng cao chất lượng dân số. Đã có 21/30 xã, thị trấn đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế giai đoạn 2011-2020, bình quân có 3,5 bác sĩ trên một vạn dân.

- Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân. Bình quân hàng năm giải quyết việc làm mới cho gần 3.000 lao động, vượt chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ tiêu là 2.700 lao động/năm). Tỷ lệ hộ nghèo bình quân giảm 3,67%/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết (chỉ tiêu là 2%/năm)…

- Công tác khoa học - công nghệ được triển khai tích cực, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả quản lý, sản xuất kinh doanh và chất lượng cuộc sống.

- Công tác quản lý tài nguyên và môi trường được tăng cường, việc sử dụng đất đai ngày càng hiệu quả hơn.

Câu 8: Hiện nay huyện Đại Từ đang triển khai thực hiện những phong trào thi đua yêu nước nào? Đồng chí (ông, bà) quan tâm đến phong trào nào nhất, tại sao?

* Các phong trào thi đua yêu nước đang triển khai thực hiện như: phong trào “xây dựng nông thôn mới”; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc”; vv...

(tự tìm hiểu để nêu đầy đủ các phong trào thi đua yêu nước do Đảng, Nhà nước, các ngành, đoàn thể triển khai, có thể nêu khái quát mục đích, ý nghĩa, mục  tiêu …của mỗi phong trào)

* Quan tâm đến phong trào nào nhất, tại sao? Cần có phân tích, liên hệ thực tế tại địa phương, cơ quan, đơn vị.

 



Thống kê truy cập

Đang truy cập: 1

Tổng truy cập: 692476